back arrow

Tôn giáo là gì

16 - 03 - 2025

Không có thời điểm nào trong lịch sử nhân loại tới nay mà câu hỏi “Tôn giáo là gì?” hay “Tại sao ta cần phải có tôn giáo” lại mang ít ý nghĩa như vào thế kỷ 21. Khoa học, công nghệ kỹ thuật hay sự phổ cập của giáo dục đại trà khiến hai chữ “tôn giáo” với rất nhiều người nghe giống hai chữ “mê tín”, “cuồng tín” hay tệ hơn là “điên” hay “tâm thần”. Tuy nhiên với mỗi con người “tôn giáo luôn luôn là một vấn đề mang tính riêng tư” và có lẽ không ai khác nói lên điều này tốt hơn là Keiji Nishitani.

Quay lại câu hỏi ban đầu, những người đặt câu hỏi này bản thân chưa nhận ra được sự cần thiết của tôn giáo. Có lẽ với họ, tôn giáo cũng như học thức hay nghệ thuật - những thứ cần thiết để có một cuộc sống tốt, nhưng không có nghĩa là cần thiết để sống. Cuộc sống vẫn tiếp diễn khi thiếu đi học thức hay nghệ thuật và vì thế mà với một số người, những thứ này cũng có thể coi là một dạng xa xỉ. Thức ăn thì lại là cần thiết. “Không ai lại hỏi người bên cạnh mình rằng anh ăn để làm gì?” vì rõ ràng với sinh vật sống như người thì câu hỏi này là hoàn toàn ngớ ngấn. Tôn giáo không được coi là cần thiết như thức ăn vì rõ ràng là có rất nhiều người vẫn sống mà không cần tôn giáo. Nhưng Nishitani tin tôn giáo không đơn thuần phục vụ cho một cuộc sống tốt đẹp bởi với Nishitani, tôn giáo thực sự trở nên KHÔNG THỂ THIẾU khi cuộc sống mất đi ý nghĩa thường nhật của nó.

Có một lúc tất cả những thứ thông thường của cuộc sống như học vấn hay nghệ thuật, tất cả mất đi sự cần thiết và hữu ích là lúc mà cái chết, sự hư vô hay tội lỗi - hay bất cứ tình huống căn bản phủ định sự sống, sự tồn tại và lý tưởng của chúng ta, làm suy yếu nền tảng của sự tồn tại và đặt ý nghĩa của sự sống vào vòng nghi vấn - chúng trở thành những vấn đề cấp bách của mỗi chúng ta. Điều này có thể xảy ra thông qua một căn bệnh khiến người ta đối mặt trực tiếp với cái chết, hoặc thông qua một bước ngoặt nào đó cướp đi những gì làm cho cuộc sống đáng sống

Lấy ví dụ về một người mà cuộc sống đã trở nên vô nghĩa do mất đi người thân yêu, hoặc do thất bại của một dự án mà anh ta đã đặt cược toàn bộ tâm sức. Tất cả những điều từng có ý nghĩa với anh ta đều trở nên vô dụng. Quá trình tương tự diễn ra khi một người đối mặt trực tiếp với cái chết và sự tồn tại của bản thân - “sự tồn tại tự thân” của anh ta - nổi lên rõ rệt trên một bức nền hư vô. Những câu hỏi chồng chất lên nhau: Sống để làm gì? Tôi đến từ đâu và sẽ đi đâu? Một khoảng trống trong tâm hồn xuất hiện mà không gì trên thế giới có thể lấp đầy; vực thẳm sâu hoắm mở ra ngay dưới chân mà người đó đang đứng. Trước vực thẳm này, không một điều gì trong tất cả những thứ đã tạo nên chất liệu của cuộc sống hàng ngày còn có ích.

Sự thực là vực thẳm đó luôn ở ngay dưới chân ta. Cái chết không phải là thứ chờ đợi mỗi người ở một tương lai xa xôi, mà nó là thứ chúng ta mang đến thế giới này khi sinh ra trên đời. Cuộc sống con người va chạm với cái chết trên mỗi bước đi; và một chân ta luôn đặt trong thung lũng chết chóc. Sự sống con người đứng chênh vênh trên bờ vực của hư vô mà nó có thể trở về bất cứ lúc nào. Sự tồn tại của chúng ta là sự tồn tại thống nhất với không tồn tại, dao động qua lại giữa hư vô, không ngừng diệt, không ngừng sinh. Đây là điều được gọi là ‘vô thường’ (luôn biến đổi) của tồn tại.

Thông thường, trong cuộc sống hàng ngày, hết lần này đến lần khác, mắt chúng ta dán chặt vào một thứ gì đó, luôn bị cuốn vào một thứ gì đó bên trong (suy nghĩ, tưởng tượng) hoặc bên ngoài. Chính những sự dính mắc này ngăn cản nhận thức đạt đến điểm sâu hơn. Chúng chặn đứng con đường mở ra chân trời hư vô và để cho bản thân trở thành một câu hỏi. Những thứ dính mắc đó bao gồm cả học vấn, nghệ thuật và toàn bộ các hoạt động văn hóa khác. Nhưng khi chân trời này xuất hiện ở tận cùng cũng những dính mắc thường ngày, dường như một thứ gì đó cũng dừng lại và nán lại trong ta. Thứ đó chính là sự vô nghĩa đang chờ đợi ta ở tận cùng những dính mắc đang mang lại ý nghĩa cho cuộc sống hàng ngày. Đây là điểm mà cảm giác hư vô, cảm giác “mọi thứ đều như nhau” mà chúng ta thấy ở Nietzsche và Dostoevsky, khiến nhịp độ tiến lên không ngừng của cuộc sống dừng lại và lùi một bước. Trong Thiền có câu, “chiếu sáng những thứ ngay dưới chân mình”

Trong sự nhịp sống liên tục của hàng ngày, đất dưới chân chúng ta luôn tụt lại phía sau khi chúng ta tiến về trước; chúng ta bỏ những thứ dưới chân mình. Lùi lại một bước để soi sáng những gì ở dưới chân - “lùi lại để về với bản thân,” là một câu khác trong Thiền - đánh dấu một sự chuyển đổi trong cuộc sống. Sự chuyển đổi cơ bản này được sinh ra bởi sự mở ra chân trời hư vô ở tại nền móng của cuộc sống. Nó không gì khác hơn là sự chuyển đổi từ cách sống lấy bản thân làm trung tâm (hoặc lấy con người làm trung tâm), vốn luôn đạt câu hỏi mọi thứ có ích gì cho ta (hoặc cho con người), sang một thái độ hỏi chúng ta (con người) tồn tại vì mục đích gì. Chỉ khi ta đứng ở bước ngoặt này, câu hỏi “Tôn giáo là gì?” mới thực sự trở thành câu hỏi của riêng ta.

Sau khi đọc những trích đoạn trên trong cuốn “Religion and Nothingness”, ta có thể trả lời câu hỏi về sự cần thiết của tôn giáo vì đó là câu trả lời giữa việc tiếp tục tồn tại hay không tồn tại nữa, Nishitani viết.

Tôn giáo là vấn đề mật thiết của cuộc sống. Cuộc sống mà chúng ta đang sống sẽ kết thúc bằng sự huỷ diệt hay tìm thấy sự tồn tại vĩnh cửu là chuyện quan trọng nhất của bản thân sự sống… Vì vậy, nói rằng mục đích của tôn giáo là để duy trì trật tự xã hội, anh sinh của con người hay đạo đức quần chúng (như Harari nói trong Sapiens) là một sai lầm, hay tối thiểu là lẫn lộn thứ tự ưu tiên.

Vì vậy nếu một người bình thường vẫn hỏi “Tại sao cần phải có tôn giáo?” hoặc khoe bản thân vẫn sống tốt mà không cần tôn giáo mỗi khi chủ đề này xuất hiện thì mọi thảo luận sau với người này đều là vô ích. Tôn giáo không sinh ra để trả lời câu hỏi đó hay để thuyết phục những người vẫn chưa nhận ra vực thẳm dưới chân mình. Nhưng khi một người tự đặt câu hỏi “Vì sao tôi lại sống?” hay “Tôi sống để làm gì?” thì đó là lúc hoặc là họ bắt đầu tìm cho mình một tôn giáo, hoặc là họ không tồn tại nữa.

Zdzislaw Beksinski Untitled 1972
Zdzislaw Beksinski Untitled 1972